Website Trường Mầm Non Đại Minh – Đại Lộc – Quảng Nam

BÀI TUYÊN TRUYỀN QUÝ III

NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN QUÝ III

Một số biểu hiện và cách phòng chống bệnh mùa nắng cho trẻ:

* Bệnh mùa nắng là gì?

– Nhiệt độ cơ thể khỏe mạnh được duy trì bởi hệ thống thần kinh. Khi nhiệt độ cơ thể tăng lên, cơ thể cố gắng duy trì nhiệt độ bình thường bằng cách truyền nhiệt. Cụ thể, cơ thể sẽ đổ mồ hôi giúp giữ cho nhiệt độ mát mẻ. Khi này, một số bệnh mùa nắng nóng xảy ra khi cơ thể của trẻ không còn đủ khả năng truyền nhiệt này

tải xuống

– Vào mùa nắng nóng, không khí thiếu độ ẩm là một trong những nguyên nhân khiến vi khuẩn gây bệnh sinh sôi. Trẻ em là đối tượng dễ mắc các bệnh mùa nắng nóng nhất. Bởi lẽ khi này sức đề kháng của trẻ còn tương đối yếu. Ngoài ra, trẻ có ý thức tự phòng bệnh chưa cao, ít nghỉ ngơi và uống không đủ nước.

– Tăng thân nhiệt có thể phát triển nhanh chóng trong môi trường quá nóng, chẳng hạn như khi để trẻ trong xe hơi. Nhiệt độ nóng cũng có thể tích tụ trong những không gian nhỏ, nơi thông gió kém, chẳng hạn như gác xép hoặc phòng lò hơi. Những người làm việc trong những môi trường này có thể nhanh chóng phát triển chứng tăng thân nhiệt.

tải xuống (1)

– Nếu không được điều trị, kiệt sức vì nóng có thể dẫn đến say nắng, một tình trạng đe dọa tính mạng xảy ra khi nhiệt độ cơ thể của trẻ lên đến 40 độ C hoặc cao hơn. Trẻ bị say nắng cần được đưa đến trung tâm y tế ngay lập tức để ngăn ngừa tổn thương ở não bộ cũng như những cơ quan khác.

  1. Tầm quan trọng của việc tảy giun:

* Tại sao trẻ phải tẩy giun định kỳ:

Nhiễm giun sán có thể gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ như:

– Chán ăn, kém hấp thu: Giun ký sinh lâu ngày làm giảm quá trình hấp thụ dưỡng chất cần thiết, khiến cơ thể thiếu hụt vitamin. Trẻ bị mất cảm giác thèm ăn, ăn mất ngon.

– Giảm tình trạng dinh dưỡng: Giun ký sinh sẽ hút hết các chất dinh dưỡng dẫn đến tình trạng thiếu máu, thiếu protein.

– Kém phát triển thể chất, trí tuệ: Tình trạng dinh dưỡng kém, thiếu hụt do bị giun tàn phá trong thời gian dài khiến trẻ bị kém tăng trưởng về thể chất (sức khỏe yếu, thấp còi hơn bạn bè cùng trang lứa) và trí tuệ (không tập trung, học hành sa sút).

– Tiềm ẩn nhiều bệnh nguy hiểm: Nhiễm giun nếu không được chữa sớm dễ dẫn đến một số bệnh lý nghiêm trọng khác như: viêm ruột thừa, tắc và thủng ruột, rối loạn tim mạch khi nhiễm nhiều giun đũa; Nhiễm giun kim trong thời gian dài ở bé gái dễ dẫn đến tình trạng viêm âm đạo, viêm vòi trứng, nhiễm trùng tiểu.

Nhiễm giun sán lâu ngày làm giảm hấp thu, khiến cơ thể trẻ thiếu hụt vitamin và chán ăn

tải xuống (2)

Tại sao trẻ dễ bị nhiễm giun:

Trẻ em dễ bị phơi nhiễm bệnh do tình trạng thể chất, dinh dưỡng và nhận thức kém và có nhiều hành vi với khả năng nhiễm giun cao như:

– Trẻ chơi đất cát và móng tay không được cắt thường xuyên

– Trẻ bò ở nền đất, nền nhà, không đi dép thường xuyên

– Trẻ chưa hiểu được tầm quan trọng của vệ sinh cá nhân

– Tiếp xúc với bề mặt bị nhiễm giun, trẻ có thể bị nhiễm giun từ đất trong sân chơi hoặc chơi với con vật nuôi bị nhiễm giun

– Tay, chân không sạch sẽ, trẻ có thể đưa mọi đồ chơi vào miệng.

– Không giữ gìn vệ sinh hoặc vệ sinh không đúng cách, giường, chiếu, đệm không sạch hoặc vứt rác bừa bãi trong phòng của trẻ

– Trẻ tiếp xúc với người lớn mang bệnh

– Trẻ ăn hoặc uống các thực phẩm bị nhiễm giun do người lớn rửa không sạch

* Các đường truyền nhiễm giun:

– Các bệnh giun truyền qua trứng giun từ phân của người bị nhiễm bệnh thải ra ngoài đất. Giun trưởng thành sống trong ruột và từ đây hàng ngàn trứng được sinh ra mỗi ngày. Trứng giun sau khi thải ra đất theo phân làm cho đất bị nhiễm, đặc biệt tại các nơi thiếu vệ sinh.

– Giun đũa, giun tóc, giun kim lây qua đường tiêu hóa như: nếu ăn phải thức ăn bẩn hoặc vệ sinh kém bị nhiễm trứng giun (như các loại rau ăn sống hoặc các loại rau không được nấu chín kỹ, rửa sạch, bóc vỏ); cũng có thể nhiễm từ các nguồn nước bị nhiễm trứng giun; trẻ em nghịch đất cát nhiễm trứng giun, sau đó đưa tay vào miệng…

– Đối với giun móc, trứng giun sẽ nở thành ấu trùng ở đất, sau đó ấu trùng giun xâm nhập cơ thể người chủ yếu là chui qua da (chân, tay…). Những người bị nhiễm giun móc thường do thói quen đi không mang giày dép trên đất bị ô nhiễm. Nhiễm giun không lây trực tiếp từ người sang người hoặc nhiễm từ phân tươi. Vì trứng giun được thải ra ngoài theo phân, cần khoảng 3 tuần để phát triển thành trứng có ấu trùng mới có thể gây nhiễm. Một khi giun trưởng thành không sinh sản được trong vật chủ (con người), trường hợp tái nhiễm chỉ xảy ra khi người tiếp xúc ở giai đoạn có thể lây truyền của ký sinh trùng ra ngoài môi trường.

Các loại giun thường gặp và triệu chứng:

– Giun đũa: Trẻ bị nhiễm giun đũa thường rối loạn tiêu hoá như đau bụng quanh rốn, buồn ói, thậm chí nôn hoặc đi ngoài ra giun.

– Giun tóc: Nhiễm nhiều giun tóc cùng lúc trẻ thường bị đau bụng, buồn nôn, tiêu hóa bị rối loạn. Tình trạng nặng hơn sẽ tổn thương niêm mạc ruột già, đi ngoài có chất nhầy lẫn máu.

– Giun móc: Triệu chứng thường gặp nhất là chóng mặt, mệt mỏi, chán ăn, đau bụng âm ỉ, da xanh, thiếu máu.

– Giun kim: Loại giun này khiến trẻ ngứa ngáy vùng hậu môn, thường xuyên gãi nhiều dễ gây nhiễm trùng, quấy khóc ngủ không ngon giấc, đi ngoài lẫn máu và chất nhầy.

– Nhiễm giun kim thường khiến trẻ ngứa ngáy ở vùng hậu môn

Khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới về tẩy giun định kỳ cho trẻ:

– Vậy tẩy giun cho trẻ bao lâu 1 lần là đúng? Theo Tổ chức Y tế thế giới hướng dẫn tẩy giun cho trẻ đúng cách cho trẻ như sau:

– Sử dụng thuốc tẩy giun cho trẻ em gồm albendazole (400 mg) hoặc mebendazole (500 mg) với thời gian là 6 tháng/1 lần được khuyến cáo cho tất cả trẻ từ 12 tuổi 23 tháng, trẻ mẫu giáo 1 tuổi 4 tuổi và trẻ em ở độ tuổi đi học 5 tuổi 12 tuổi (ở một số nơi là 14 tuổi) sống ở những khu vực có tỷ lệ nhiễm của bất kỳ loại giun nào truyền qua đất ở trẻ em từ 20% trở lên, nhằm phòng tránh các bệnh do nhiễm giun truyền qua đất gây ra.

tải xuống (3)

* Cách phòng ngừa nhiễm giun:

– Do trẻ có thể chơi ở những khu vực bụi bẩn, cát, cỏ và các khu vực công cộng khác nên có khả năng nhiễm giun rất cao. Mặc dù nhiễm giun có thể dễ dàng loại bỏ thông qua sử dụng thuốc tẩy giun, tuy nhiên trẻ về có thể bị tái nhiễm nếu không thực hiện kết hợp thêm các biện pháp khác. Dưới đây là một vài lời khuyên có thể hạn chế khả năng nhiễm giun đường ruột ở trẻ.

– Rửa kỹ trái cây và rau quả trước khi sử dụng. Kiểm tra xem chúng có bị nhiễm giun không trước khi ăn. Không ăn trái cây hoặc rau, ngay cả khi chỉ một phần của nó bị nhiễm khuẩn.

– Tránh ăn thịt sống, đặc biệt là thịt lợn và cá.

– Không nên để trẻ em chơi chân trần trên cỏ, bùn hoặc các khu vực ngoài trời khác.

– Uống nước đun sôi mỗi lần, tránh uống từ bể công cộng trừ khi bạn chắc chắn rằng nó an toàn.

– Sử dụng bể bơi đáp ứng các yêu cầu vệ sinh.

– Vệ sinh cá nhân: Cần thường xuyên vệ sinh tay chân cho trẻ trước và sau khi ăn; rửa tay kỹ sau khi đi ngoài; không dùng tay bẩn bốc thức ăn.

– Ăn chín uống sôi: Thức ăn và nước uống phải được nấu chín kỹ. Nếu là trái cây, rau sống thì phải xử lý sạch trước khi cho trẻ ăn; thức ăn cần đậy kín tránh ruồi, nhặng; cho trẻ sử dụng nguồn nước sạch.

– Giữ sạch môi trường sống: Cần giữ vệ sinh nhà ở và không gian sinh hoạt sạch sẽ, tránh nước đọng, đất cát hoặc những yếu tố lý tưởng cho giun sán dễ phát triển.

– Những biện pháp phòng ngừa này có thể không loại trừ hoàn toàn khả năng trẻ bị nhiễm giun, tuy nhiên cũng làm giảm thiểu nguy cơ mắc cho trẻ và cả gia đình.

  1. Cách phòng bệnh còi xương:

* Bệnh còi xương ở trẻ em:

– Còi xương là bệnh thiếu vitamin D do loạn dưỡng xương hoặc rối loạn chuyển hóa canxi và phốt pho dẫn đến rối loạn hấp thu vitamin D. Việc thiếu hụt vitamin D gây ảnh hưởng đến sự phát triển của xương khớp và các hệ cơ quan trong cơ thể trẻ như hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, nội tiết…

– Nguyên nhân khiến trẻ bị còi xương là do trẻ bị thiếu vitamin D không hấp thụ được canxi ở ruột dẫn đến thiếu canxi trong máu. Lúc này, nội tiết tố hoormone cận giáp trạng tăng lên khiến việc hấp thụ phốt phát ở thận và máu giảm sút gây rối loạn các chức năng ở hệ thần kinh. Do thiếu canxi máu nên cơ thể phải huy động canxi từ xương đưa vào máu khiến xương khớp bị thiếu canxi và dẫn đến còi xương. Trẻ nhỏ từ 6-36 tháng tuổi đang trong giai đoạn phát triển hệ xương khớp thường rất dễ mắc bệnh còi xương.

– Trong giai đoạn đầu, trẻ chưa có biểu hiện cỏi xương rõ rệt ngoài các biểu hiện về rối loạn thần kinh làm trẻ hay quấy khóc, giật mình khi ngủ, đổ mồ hôi trộm, rụng tóc vành khăn… Đến khi bệnh phát triển thì các biểu hiện bất thường như xương sọ mềm, thóp rộng, có bướu đỉnh hay hiện tượng trán dô, mọc răng chậm, chậm lẫy, chậm bò, chậm đi… cũng dễ nhận thấy hơn. Trẻ kém lanh lợi, hoạt bát, chậm phát triển chiều cao và cân nặng. Những trẻ bị còi xương nặng có thể nhận thấy hiện tượng vòng cổ tay, cổ chân, xương cẳng chân hình chữ X, chữ O, biến dạng lồng ngực, cơ bắp nhũn nhão…

dau-hieu-nhan-biet-tre-coi-xuong_800_813

Cách phòng chống bệnh còi xương ở trẻ em:

– Để phòng bệnh còi xương ở trẻ, tốt nhất nên phòng bệnh từ khi mẹ còn đang mang thai. Mẹ cần chú ý bổ sung các thực phẩm giàu vitamin D và canxi như thịt, cá, tôm, cua, ốc, gan, trứng, sữa. Nên cho thêm các loại dầu tự nhiên như dầu olive, dầu đậu phộng, dầu đậu nành… vào trong thức ăn để vitamin D dễ hòa tan và hấp thu tốt hơn, lại không gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Vào các tháng cuối của thai kỳ, mẹ có thể uống thêm dầu cá hoặc vitamin D để bổ sung nhưng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ sản khoa để tránh lạm dụng vitamin D. Ngoài ra, cha mẹ cũng nên cải thiện nhà ở sao cho thoáng mát và đủ ánh sáng mặt trời để cơ thể người mẹ tổng hợp vitamin D hiệu quả.

– Đối với trẻ nhỏ, ngoài việc cho trẻ bú sữa mẹ ngay từ khi trẻ chào đời thì khi trẻ được 5-6 tháng tuổi, cha mẹ cần quan tâm đến chế độ dinh dưỡng của trẻ bằng việc cho trẻ ăn bổ sung. Các thực phẩm như cá hồi, cá thu, lươn, thủy hải sản, trứng, các loại đậu, sữa và các chế phẩm từ sữa là nguồn cung cấp vitamin D và canxi dồi dào mà cha mẹ nên bổ sung cho trẻ mỗi ngày.

– Bên cạnh việc bú sữa mẹ và bổ sung vitamin D và canxi vào chế độ dinh dưỡng, thường xuyên cho trẻ tắm nắng là một biện pháp đơn giản nhưng lại giúp trẻ tổng hợp vitamin D và hấp thu canxi rất hiệu quả. Trẻ cần được tắm nắng khoảng 15-20 phút mỗi ngày trước 9h sáng và sau 4h chiều. Không nên cho trẻ tắm nắng lúc mặt trời lên cao, nắng gắt buổi trưa. Khi cho trẻ tắm nắng, mẹ nên cho trẻ mặc quần áo mỏng, rộng rái, thoáng mát, tốt nhất nên để lộ tay chân lưng bụng để tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời.

– Mẹ cũng có thể cho trẻ uống dầu cá hay vitamin D 400UI/ ngày sau khi đã tham khảo lời khuyên của bác sĩ nhi khoa. Đối với những trẻ sinh non, thiếu tháng, thiếu cân thì cha mẹ nên đưa trẻ đi khám định kỳ để được các bác sĩ theo dõi tốt nhất.

Cảm nhận của Phụ huynh

Anh Võ Thành Hưng – Phụ huynh bé: Võ Gia Huy – Lớp nhỡ

ôi chưa từng thấy một ngôi trường mầm non nào có sân chơi rộng rãi – sạch sẽ – thoáng mát và nhiều trò chơi bổ ích như ngôi trường mầm non này ! Thật là bất ngờ thú vị , nó giống như một công viên thiếu nhi thực thụ ! Hàng ngày mỗi buổi sáng , tôi đều cùng bé Gia Huy chơi đùa dưới sân trước giờ học, bé rất thích thú và học hỏi được nhiều điều mới lạ. Và từ một đứa bé rụt rè nhút nhát, đến nay, sau hơn 4 tháng học tập vui chơi ở đây, bé đã được phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần lên rất nhiều !