Website Trường Mầm Non Đại Minh – Đại Lộc – Quảng Nam

SKKN-Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi cơ kỹ năng tự phục vụ bản

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

BÁO CÁO SÁNG KIẾN

  1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có kỹ năng tự phục vụ bản thân.
  1. Mô tả bản chất của sáng kiến:

Giáo dục mầm non là ngành giáo dục hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đến trường trẻ được học, được chơi, được tiếp xúc với nhiều bạn, được sống trong tình thương của cô giáo, được khám phá thế giới bí ẩn xung quanh, biết cách sống tự lập cao, nhờ quá trình giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách.

Đối với trẻ 3-4 tuổi, việc hình thành một số kỹ năng tự phục vụ ban đầu cho trẻ là rất quan trọng. Nếu trẻ biết tự phục vụ bản thân, trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần, từ đó sẽ xây dựng những kỹ năng sống hòa nhập với môi trường xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi, trẻ rất cần những tác động khác nhau đến kỹ năng sống của trẻ. Khi trẻ thực hiện được một số kỹ năng này trẻ có thể tự tin tham gia vào hoạt động hàng ngày của trẻ khi ở trường cũng như mọi lúc mọi nơi. Giúp trẻ hình thành tính tự lập ngay từ những năm đầu đời đặt nền móng cho sự phát triển của trẻ sau này. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện, là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ.

Vì lẽ đó tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết và vô cùng ý nghĩa đặc biệt là kỹ năng tự phục vụ. Nếu không có kỹ năng tự phục vụ trẻ sẽ không thể chủ động, tự lập trong cuộc sống, trẻ gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi với môi trường ở trường mầm non. Đặc biệt trước diễn biến của dịch bệnh người lớn càng phải trang bị cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ bản thân. Hãy làm tất cả vai trò là người hỗ trợ trẻ để trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ một cách hiệu quả nhất.

Trong xã hội hiện nay, tình trạng trẻ em thụ động ỷ lại vào người lớn, chưa biết làm những công việc tự phục vụ bản thân hoặc không có khả năng làm 1 số công việc nhẹ nhàng vừa sức để giúp đỡ người lớn đang diễn ra rất phổ biến. Điều đó xuất phát từ chính tâm lý e ngại của người lớn, với suy nghĩ trẻ còn nhỏ chưa làm được mọi thứ, sợ trẻ làm sai, cha mẹ không đủ kiên nhẫn chờ đợi trẻ dẫn tới người lớn sẽ làm thay trẻ tất cả các hoạt động mà lẽ ra đó là của trẻ.

Năm học 2022-2023 bản thân tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo 3-4 tuổi. Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày, tôi nhận thấy khả năng tự phục vụ của trẻ còn rất hạn chế: Kỹ năng rửa tay, rửa mặt, vệ sinh răng miệng, kỹ năng tự chăm sóc bản thân (đi giày dép, tự mặc, cởi quần áo, gấp quần áo, gập chăn gối khi ngủ dậy), kỹ năng cất đồ dùng cá nhân gọn gàng, cất đồ chơi đúng nơi quy định, sắp xếp bàn ghế, cầm thìa.

Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để giúp trẻ có kỹ năng tự phục vụ bản thân. Chính vì vậy tôi đã tìm tòi, suy nghĩ tìm ra các giải pháp nhằm trang bị cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ tốt nhất giúp trẻ chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có kỹ năng tự phục vụ bản thân”

2.1. Các bước và cách thức thực hiện giải pháp:

* Biện pháp 1: Tạo môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Muốn vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành.

Trong trường mầm non cô giáo chính là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Những lời nói cử chỉ của cô, những điều cô dạy bảo sẽ gây ấn tượng cho trẻ mang theo đến suốt cuộc đời. Qua các hoạt động cũng như khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy những đặc điểm của trẻ mẫu giáo là rất hay bắt chước và rất nhạy cảm. Trẻ tiếp thu rất nhanh những cái hay những cái dở. Vì vậy là một người giáo viên trước khi đến lớp tôi đặc biệt chú ý đến hình dáng bên ngoài như:  đầu  tóc  gọn  gàng, sạch  sẽ. Tôi luôn tạo cho mình có tác phong nhanh nhẹn nói đi đôi với làm, làm đâu sạch đấy, luôn gọn gàng, ngăn nắp. Bằng chính những việc làm, hành động cũng như thói quen nề nếp của cô sẽ hình thành thói quen tốt cho trẻ. Đồng thời tôi cũng luôn tự tu dưỡng, trau dồi đạo đức và nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững tâm sinh lý trẻ giúp trẻ hoạt động tích cực  để nhằm phục vụ trẻ tốt hơn.

Ngoài ra với trẻ mầm non việc học của trẻ thường được thực hiện thông qua hình thức “học bằng chơi, chơi mà học”. Do đó để phát huy tính tích cực của trẻ, khi thiết kế các góc hoạt động tôi luôn chú ý đến việc trang trí môi trường thân thiện theo hướng giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, sắp xếp vị trí các góc chơi phù hợp, bố trí hài hòa giữa các góc động và góc tĩnh, việc sắp xếp các đồ dùng đồ chơi luôn luôn được thay đổi. Để tạo ra sự hấp dẫn đối với trẻ sau mỗi chủ đề giáo viên cần thay đổi vị trí các góc chơi để tạo cho trẻ cảm giác mới lạ, tạo các góc mở linh hoạt để trẻ được thao tác, tháo lắp, trải nghiệm và thực hành qua đó sẽ phát triển tư duy và khéo léo cho trẻ… Bên cạnh đó tất cả tranh, ảnh, mô hình và tên các góc cần gắn kèm từ để trẻ được làm quen chữ cái, chữ số, giúp cho trẻ được chủ động tích cực, vui chơi, tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, thực hành, hợp tác, trò chuyện và chia sẻ ý tưởng. Tôi luôn chú ý trang trí góc chủ đề, góc kỹ năng sống phong phú như kỹ năng đánh răng, kỹ năng cài khuy áo, kỹ năng đan tết,…. (Hình 1 phần phụ lục)

Đồ dùng đồ chơi trong lớp tôi cũng sắp xếp gọn gàng. Tôi luôn hướng dẫn trẻ làm một cách nhẹ nhàng. Nhắc nhở động viên khen ngợi trẻ một cách kịp thời. Mỗi khi trẻ làm sai cô lại nhắc nhở trẻ uốn nắn để sửa sai luôn hình thành thói quen tốt cho trẻ. (Hình 2 phần phụ lục) 

Đối với các khu vực để đồ dùng cá nhân của trẻ như: kệ dép, tủ đồ dùng cá nhân tôi dán bản quy định để hướng dẫn trẻ cất đồ dùng của mình đúng nơi quy định. Tương tự ở khu vực rữa tay của trẻ tôi cũng dán bản hướng dẫn các bước rữa tay để trẻ có thể vừa học vừa thực hành rữa tay. (Hình 3,4 phần phụ lục) 

* Biện pháp 2: Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động hng ngày

Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua hoạt động đón, trả trẻ

Ỏ hoạt động đón, trả trẻ giáo viên vừa giao tiếp với trẻ với phụ huynh đồng thời cũng quan sát những hành động kỹ năng của trẻ, từ đó có những uốn nắn kịp thời cho trẻ.

Giờ đón trẻ: Tôi quan sát khi phụ huynh đưa con tới lớp. Tôi ra đón  trẻ ân cần niềm nở và quan sát nhắc nhở trẻ chào hỏi, hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân một cách gọn gàng ngăn nắp. Tôi luôn chú ý tình hình sức khoẻ và tâm trạng của trẻ.

Ví dụ: Trẻ đổi dép mang trong lớp nhưng không cất dép mang ở nhà đến lên giá. Tôi nhắc trẻ con lồng 2 chiếc dép của con vào nhau và tự cất lên giá. Như vậy trẻ sẽ nhẹ nhàng cất lên giá dép ngay. Qua đó giáo dục kỹ năng tự cất đồ dùng cá nhân gọn gàng đũng nơi quy định cho trẻ. (Hình 5 phần phụ lục) 

Giờ trả trẻ: Tôi nhắc nhở trẻ trước khi về cất ghế đúng nơi quy định, cất gọn gàng ngăn nắp. Khi trẻ cất ghế một số trẻ cầm ghế chưa đúng tôi sẽ bao quát sửa sai, nhẹ nhàng hướng dẫn các con cách bê ghế bằng 2 tay, 1 tay cầm thành ghế, 1 tay cầm mặt ghế bê ghế ngang tầm bụng, cất đúng chỗ, gọn gàng, cất dép đi trong nhà vào đúng nơi quy định mới ra về. (Hình 6 phần phụ lục) 

Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua hoạt động ngoài trời

Hoạt động ngoài trời là một hoạt động trẻ được tự do hòa mình với thiên nhiên, với môi trường xung quanh. Thông qua hoạt động ngoài trời, giáo viên sẽ cung cấp cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ.

Trong quá trình khi trẻ tham gia hoạt động có chủ đích cùng cô giáo viên có thể dễ dàng lồng ghép giáo dục và củng cố các kỹ năng tự phục vụ vào quá trình hoạt động của trẻ như nhặt lá, tưới cây, hái rau trong vườn trường… Từ đó tôi đánh giá được việc ứng dụng kỹ năng mà cô dạy vào trong thực tế của trẻ đến đâu. Trong quá trình chơi và hoạt động tự chọn, nhắc nhở trẻ biết bảo quản, giữ gìn đồ chơi, tự rửa đồ chơi sau khi chơi xong, thu dọn cất đồ dùng, đồ chơi vào đúng nơi quy định. (Hình 7 phần phụ lục)

Khi vào lớp, yêu cầu trẻ tự cất giày dép đúng nơi quy định, tự rửa tay, lau mặt, nghỉ vài phút để chuẩn bị cho hoạt động tiếp theo. Ngoài ra sau khi tham gia hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ xếp hàng rửa tay sau khi chơi và tự cất dép lên giá hàng ngày trẻ được thực hiện thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ trở thành kỹ năng thuần thục. (Hình 8 phần phụ lục)

Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua hoạt động học

Hoạt động học là hoạt động mà giáo viên có thể lồng ghép nội dung rèn tính tự phục vụ cho trẻ dễ dàng và đạt được hiệu quả cao. Trong hoạt động học, việc rèn tính tự phục vụ của trẻ được thông qua nội dung bài học và cả các hình thức tổ chức dạy học. Chính vì vậy, tôi thường cho trẻ làm quen với hình thức làm việc theo nhóm để phát huy tính đoàn kết, biết thảo luận, trao đổi ý kiến và đưa ra kết quả chung cho nhóm của mình. Bên cạnh đó nếu làm việc theo nhóm mà trẻ không tích cực, không chủ động thì dẫn đến việc trẻ dựa dẫm vào bạn khác, không chịu tự làm việc và thảo luận cùng các bạn. Vì vậy, khi cho  trẻ làm việc theo nhóm thì cô cần quan sát kĩ để phát hiện những trẻ nào tích cực, những trẻ nào còn chưa tích cực để động viên, khuyến khích giúp trẻ cố gắng và tích cực hơn trong các hoạt động sau. Ngoài việc cho trẻ làm việc theo nhóm, tôi còn cho trẻ làm việc cá nhân nhằm rèn tính tự phục vụ cho từng cá nhân trẻ. Trong giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị trí ngồi của mình, kết thúc tiết học tôi nhắc trẻ cất đồ dùng học tập vào vị trí ban đầu để từ đó rèn cho trẻ thói quen lấy và cất đồ dùng đúng nơi qui định. Khi thực hiện tôi luôn nghiên cứu lồng ghép nội dung giáo dục các kỹ năng tự phục vụ vào các tiết học.

Ví dụ: Trong giờ học toán tôi đã chuẩn bị cho mỗi trẻ 1 rổ đồ dùng và 1 bảng học toán. Đồ dùng của trẻ tôi đặt ở các vị trí khác nhau và quy định với trẻ vị trí lấy và cất đồ dùng của từng tổ. Khi có nhạc hoặc hiệu lệnh trẻ sẽ lấy hoặc cất đồ dùng vào đúng vị trí theo quy định. Với những giờ học đầu năm cô hướng dẫn trẻ các thao tác lấy và cất đồ dùng dần dần hình thành cho trẻ có thói quen và kĩ năng lấy và cất đồ dùng trong mỗi hoạt động.

Ví dụ: Khi đến giờ thể dục giờ học, chỉ cần nghe tiếng nhạc tập trung, trẻ tự cất đồ chơi, lấy dụng cụ tập và xếp hàng tập thể dục ngay ngắn. Với những trẻ chưa tự giác ra lấy dụng cụ tập thể dục, tôi nhẹ nhàng hỏi trẻ “Con có biết mình còn thiếu gì không? Con tập thể dục với gì vậy?” hoặc tôi có thể nhờ chính những bạn ấy lấy giúp các cô rổ đựng dụng cụ ra sân. Dần dần trẻ sẽ chủ động, tự giác khi nghe nhạc tập thể dục sẽ đi mang giúp cô đồ ra sân trường sau đó sẽ lấy dụng cụ về hàng.

Ví dụ: Trong giờ học tạo hình tôi phân công cho các bạn tổ trưởng, nhóm trưởng lấy vở, lấy học liệu, rổ màu… cho các bạn trong nhóm của mình. Được cô giáo phân công nhiệm vụ trẻ rất tích cực, hứng thú học chính vì vậy mà trẻ nào cũng luôn cố gắng thật ngoan để được giúp đỡ cô lấy đồ dùng cho bạn. Giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ học đến cuối giờ học. Từ việc hình thành cho trẻ các kĩ năng trong các hoạt động tôi đã rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng ngăn nắp, lấy đâu cất đấy.

Ví dụ: Trong hoạt động giáo dục âm nhạc, đề tài: Hát “Đôi mắt xinh”. Sau khi cho trẻ hát và quan sát một số hình ảnh trên máy chiếu tôi tiến hành đàm thoại hỏi trẻ để trẻ nhớ nội dung bài hát như:

Bài hát nhắc đến những bộ phận nào của cơ thể?

Đôi mắt, tai, miệng, tay có tác dụng như thế nào?

Trong khi trẻ trả lời tôi gợi mở giúp trẻ hiểu rõ hơn tầm quan trọng của các giác quan trên cơ thể con người. Qua đó giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ các giác quan đó như: rửa mặt, đánh răng, cắt móng tay … đặc biệt trẻ phải ăn đầy đủ các chất để cho cơ thể khoẻ mạnh và thông minh.

Ngoài ra trong hoạt động tạo hình trẻ biết chia vở cho bạn thông qua ký

hiệu. Cô rèn cho trẻ tự lấy màu và lấy ghế ngồi vào bàn.

Ở tiết học khám phá với chủ đề “Trường mầm non”. Tôi cho các con tìm hiểu những nội quy của lớp: Nội quy cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định, cất ba lô và cất dép, bỏ rác đúng chỗ. Tôi cùng các con thống nhất đưa ra các nội quy để thực hiện.

Hay ở tiết học làm quen văn học, bài thơ “Quy tắc xếp hàng”, qua bài thơ dạy trẻ cách xếp hàng không chen lấn. Như vậy trẻ sẽ rất hứng thứ vì trẻ vừa đọc thơ và vừa được diễn lại, sẽ không có cảm giác bị ép buộc khi học. Khi đọc thơ các con sẽ nhớ các bước hơn là mình nói bằng lý thuyết.

Ngoài ra việc xây dựng các tình huống về giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cũng là 1 việc làm rất quan trọng trong việc giáo dục kỹ năng cho trẻ. Để hành động trở thành kỹ năng cần trải qua một quá trình. Giáo dục kỹ năng cho trẻ phải gắn với các việc làm, tình huống cụ thể, trẻ được quan sát người khác làm, trẻ được tự thực hiện để trải nghiệm, trẻ tự đưa ra cách xử lí tình huống để rút kinh nghiệm. Sự trải nghiệm nhiều lần sẽ giúp trẻ nhận thấy ý nghĩa thiết thực của việc làm, từ đó trẻ sẽ chủ động vận dụng các kỹ năng cần thiết vào từng tình huống cụ thể trong cuộc sống.

Ví dụ: Trong hoạt động LQVH câu chuyện “Gấu con bị đâu răng”. Tôi hỏi cả lớp vậy bây giờ các con sẽ làm gì để giúp bạn Gấu con không bị đau răng nữa? Sau khi trẻ đưa ra các cách giải quyết của mình tôi sẽ đưa ra cách giải quyết cụ thể để giúp bạn Gấu đó là không nên ăn nhiều đồ ngọt, phải đánh răng sau khi ăn xong và trước khi đi ngủ, nếu không thì những con sâu đục khoét lấy thức ăn bám vào chân răng hay kẽ răng sẽ làm đau nhức và sâu răng.

Như vậy dù là một tình huống nhỏ nhưng mỗi trẻ đã đưa ra những cách giải quyết của riêng mình. Chính nhờ có việc đưa ra các tình huống thực tế như thế để trẻ tìm cách xử lý, tôi sẽ nắm bắt được các kỹ năng của trẻ từ đó đưa ra những biện pháp tiếp tục để rèn trẻ.

Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua hoạt động góc

Hoạt động góc là hoạt động mà trẻ mầm non rất thích thú. Ở các góc chơi trẻ thể hiện các vai chơi, đóng làm người lớn bắt chước làm những công việc của người lớn. Cũng chính tại hoạt động góc trẻ sẽ “bộc lộ” sự sáng tạo những kinh nghiệm của bản thân.

Vui chơi-nhất là trò chơi phân vai chính là một hoạt động phản ánh thực cuộc sống xã hội thu nhỏ. Khi tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí chủ thể của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết định làm lấy những gì mà mình thích chứ không phải là những gì người khác ép buộc. Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ được thể hiện kỹ năng tự phục vụ của mình. Trẻ luôn luôn mong muốn mình được tự giải quyết lấy mọi tình huống, chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của ai. Trẻ tự tiến hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ.

Ví dụ: Trong chủ đề nhánh “Ngôi nhà hạnh phúc” hoạt động góc có nhiều góc chơi, trước tiên tôi giới thiệu các góc chơi, trẻ tự chọn góc chơi mà mình thích, bắt đầu thỏa thuận vai chơi. Có trẻ chọn góc phân vai, có trẻ chọn góc xây dựng, … Được đóng vai các cô chú công nhân xây dựng trẻ có thể lấy đồ dùng đồ chơi chia cho bạn cùng nhóm, vai bố mẹ, trẻ biết gấp quần áo, thây quần áo cho con, …Từ những hoạt động hàng ngày của người lớn mà trẻ đã vận dụng vào xã hội thu nhỏ thông qua hoạt động góc.(Hình 9,10 phần phụ lục)

Ví dụ: Qua góc chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “ Bác ơi bác mua thứ gì nào? Trẻ nói mua rau –  trả tiền nè. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con phải hỏi bác ơi bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét trước lớp. Với hình thức này các cháu rất thích. 

Hoạt động vui chơi không chỉ ảnh hưởng đến sự hình thành tính chủ định, phát triển tư duy, trí tưởng tượng, ngôn ngữ, tâm lý cũng như đời sống tình cảm mà thông qua trò chơi thì những phẩm chất ý chí của trẻ cũng được hình thành như: Tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm, tính tự lập…

Trong giờ hoạt động góc, sau khi kết thúc giờ chơi tôi thường hướng dẫn trẻ tự cất đồ dùng, đồ chơi gọn gàng đúng nơi quy định. (Hình 11,12 phần phụ lục)

Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ hoạt động góc và hoạt động ngoài trời trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn khởi, mong chờ nhất. Không những vậy hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất nó giữ vai trò chủ đạo ở lứa tuổi này, qua hoạt động này làm biến đổi về chất trong toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Vì vậy đối với trẻ ở lứa tuổi này, đồ vật không phải là thứ để trẻ nghịch như trước đây mà bây giờ qua chơi với đồ vật, đồ chơi giúp trẻ khám phá chức năng và phương thức sử dụng tương ứng (như cái thìa dùng để xúc cơm ăn và có cách cầm thìa nhất định…) Chính vì vậy tôi rất chú trọng việc tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ vật, đồ chơi và chơi với bạn bè.

Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua hoạt động vệ sinh, ăn, ngủ

Hoạt động vệ sinh, ăn,ngủ là một hoạt động không thể thiếu ở trường mầm non. Bên cạnh việc giáo dục tri thức, thẩm mỹ, thể chất…cho các con tại trường mầm non, việc giáo dục các con về các vấn đề vệ sinh cũng là việc hết sức quan trọng. Rèn luyện những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo đó là nhiệm vụ rất cần thiết. Lứa tuổi mầm non trẻ 3 tuổi dù là nhỏ tuổi nhưng trẻ cũng đã dần biết được giữ vệ sinh cho bản thân mình luôn được sạch sẽ. Việc hiểu và nắm vững kiến thức vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường sống sẽ giúp cơ thể trẻ phát triển tốt, chống đỡ được các bệnh tật, đồng thời hình thành những thói quen cơ bản để giúp trẻ có nhiều nề nếp tốt. Có rất nhiều hoạt động ở trường mà các giáo viên có thể thông qua đó để giáo dục dạy trẻ về kỹ năng vệ sinh. Đó là những điều rất đơn giản, thường gặp hàng ngày như tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, kê bàn, lấy bát, thìa…Tôi hướng dẫn và cho trẻ kỹ năng rửa mặt, rửa tay trước khi ăn. Tôi phân công một bạn trong lớp quan sát các bạn khác rửa tay, lau mặt và phân công một số bạn trực nhật bữa ăn. Sau khi trẻ ăn xong, tôi cho trẻ tự cất ghế về đúng nơi quy định, lấy khăn lau miệng và uống nước, xúc miệng nước muối loãng.

Tôi dạy trẻ biết mời cô, các bạn, cầm thìa đúng cách, không làm rơi vãi cơm xuống nền hay rơi trên quần áo.

Khu vực ăn tôi dán một số hình ảnh trẻ ngồi ăn đúng tư thế, cầm thìa, bát đúng cách để trẻ làm theo.

Ví dụ: Trong giờ ăn ở lớp, điều đầu tiên tôi làm đó là hưỡng dẫn cho các bé cách cầm muỗng để làm sao xúc được cơm, canh ……  Sau khi hưỡng dẫn xong tôi cho bé thực hiện, luôn động viên, nhắc bé ăn uống hết khẩu phần ăn của mình và đặc biệt là khuyến khích các bé tự xúc ăn bằng cách bạn nào hôm nay tự xúc ăn thì cô sẽ có thưởng.  Cũng nhờ có động lực được thưởng nên các bé không những trở nên thích thú với việc tự xúc ăn mà còn ăn hết khẩu phần ăn của mình. Nhắc nhở trẻ rữa tay trước và sau khi ăn. (Hình 13,14 phần phụ lục)

Tôi còn giáo dục trẻ biết tự mặc quần áo không bôi bẩn vào quần áo.

Ví dụ: Cho trẻ xem tranh ảnh các bạn nhỏ ăn mặc quần áo sạch sẽ khi đi  học, khi đi đến những nơi công cộng hoặc dự lễ hội. Từ đó trẻ sẽ ý thức và giữ gìn quần áo của mình.

Giờ ngủ tôi cho trẻ làm giúp cô những việc vừa sức của mình và rèn cho trẻ có các thói quen tốt.

Ví dụ: Cho trẻ xếp hàng đi lấy gối, xếp gối và cất gối đúng nơi quy định sau khi ngủ dậy. (Hình 15,16 phần phụ lục)

Để hình thành thói quen và nền nếp thực hiện các kỹ năng cho trẻ, tôi luôn thực hiện đúng theo lịch hoạt động vệ sinh ở trường. Luôn luôn tổ chức cho trẻ thực hiện các thao tác vệ sinh đúng giờ, luôn quan sát, theo dõi để kịp thời nhắc nhở, động viên trẻ.

Việc rèn trẻ các kỹ năng tự phục vụ trong các hoạt động trong ngày như vậy, tôi thấy trẻ lớp tôi đã có thói quen, nề nếp trong việc tự phục vụ của bản thân, trẻ có ý thức tự lập hơn trong những công việc đơn giản, phù hợp với khả năng của trẻ, từ đó hình thành kỹ năng tự phục vụ.

* Biện pháp 3: Động viên khen ngợi việc làm của trẻ

Theo The Guardian, một trong những cách khơi dậy tiềm năng của trẻ là khích lệ tinh thần đúng lúc. Nếu một đứa trẻ nói rằng con không giỏi ở một điều gì đó, hãy nói với chúng: “Con hoàn toàn có thể”, “thật khó để làm được điều đó ngay bây giờ, nhưng chắc chắn con có thể học cách để làm được điều này đúng hạn nếu con chăm chú, nghiêm túc”. Những lời động viên tích cực có thể giúp các em tự tin vào trí tuệ của mình, từ đó nỗ lực hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ.

Việc khen ngợi cần được xem như một hành động công nhận trẻ đã hoàn thành một công việc nào đó, ở bất cứ một mức độ nào (Sơ sài, bình thường hay hoàn chỉnh). Chính vì vậy cần đưa ra lời khen ngợi bằng sự nhận xét tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm, cần hạn chế khen ngợi quá mức với những việc đơn giản, điều đó sẽ làm tác dụng của việc khen ngợi bị đảo ngược lại. Lời khen cần cụ thể, đúng việc, đúng nơi đúng chỗ.

Ví dụ: Lớp tôi có một số bạn rất thích được xếp cất ba lô, giày dép, gối… vào đúng nơi quy định. Tôi đã luôn khen ngợi trẻ trực tiếp một cách tích cực nhưng không quá nâng cao trẻ như: Cảm ơn con vì đã lau bàn giúp cô. Lớp sạch sẽ hơn là nhờ con vứt rác đúng nơi quy định đấy. Bàn ghế sạch sẽ hơn là nhờ nhóm các con hôm nay trực nhật đấy. Tủ gối của cô hôm nay rất gọn gàng, các con rất giỏi…

Một đứa trẻ khi được khen sẽ rất thích thú và làm tăng khả năng tư duy của trẻ, giúp trẻ phấn khích hơn trong những hoạt động tiếp theo. Tuy nhiên nếu chỉ khen ngợi bằng lời mãi thì có lẽ hiệu quả đạt được sẽ không cao. Mà khen ngợi bằng hành động sẽ làm cho trẻ tích cực hơn nhiều.

Ví dụ 1: Trẻ mẫu giáo nói chung và ở độ tuổi mẫu giáo bé nói riêng đều rất thích chơi với đồ chơi ngoài trời. Và trẻ lớp tôi cũng vậy, nên trước các hoạt động tôi thường khích lệ trẻ như: Hôm nay chúng mình học vẽ những bông hoa, các con hãy vẽ thật đẹp, tô màu không bị trờm ra ngoài, cầm bút tay phải và ngồi ngay ngắn, bạn nào vẽ giỏi sẽ được nêu gương cuối ngày, được cắm cờ và cuối tuần được tặng hoa bé ngoan. (Hình 17,18 phần phụ lục)

Ví dụ 2: Lớp tôi có bạn chỉ đạt mức trung bình trong hầu hết trong mọi hoạt động. Tôi luôn giao việc trực tiếp cho trẻ và sau mỗi lần trẻ làm được hay không làm được tôi đều dành những lời khen cho những hành động đó. Hôm nay con rất giỏi cô ôm con 1 cái hay cô hôn con nào.

* Biện pháp 4: Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh cùng gia đình giáo dục cho trẻ kỹ năng tự phục vụ

Việc phối hợp với phụ huynh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Để các bậc phụ huynh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ. Phụ huynh có thể cho các con rèn luyện, thực hành các kỹ năng mà trẻ được dạy ở lớp ngay tại nhà.

Như chúng ta đã biết thời gian trẻ đến trường nhiều hơn rất nhiều so với thời gian ở nhà. Những bài học trẻ được học ở trường giúp trẻ phát triển đúng yêu cầu ở độ tuổi, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và nhận thức, giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, tích cực và chủ động khi tham gia các hoạt động cùng cô và bạn.

Tuy nhiên để công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất thì cần phải có sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình, tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, còn về nhà cha mẹ lại luôn làm giúp trẻ mọi việc. Chính vì không muốn tình trạng đó xảy ra nên tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong những giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến trẻ ở trường và đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Bởi không phải phụ huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó.

Tôi luôn tuyên truyền với phụ huynh hiểu thế nào là cho trẻ tự lập, tự phục vụ và làm những việc trong khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng dẫn trẻ làm không nên làm giúp trẻ, hay khi trẻ đã biết làm rồi thì người lớn nên khuyên khích động viên trẻ, cho trẻ rèn luyện tính tự lập đó nhiều lần để trở thành các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống của trẻ.

Ba mẹ nên dạy trẻ các quy tắc kính trên nhường dưới, biết cách chờ đợi và mời người lớn ăn cơm, biết lấy bát đĩa cho những người ăn cùng, hỗ trợ người thân trong gia đình dọn dẹp nhà cửa, giúp đỡ cụ bà qua đường, tự dọn dẹp ly sau khi uống nước ở nơi công cộng,…Bằng những cách này, trẻ nhỏ sẽ ý thức và hiểu rõ hơn về vai trò của mình, đồng thời gia tăng được sự gắn kết đối với những người thân bên cạnh.

VD: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi rất được bố mẹ nuông chiều không bao giờ tự làm một việc gì, đến lớp thì đợi cô và bạn làm giúp. Tôi đã trò chuyện với phụ huynh để họ nắm bắt được tình hình của con mình và tôi tuyên truyền cho họ các phương pháp về giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ nhỏ để phụ huynh có thể áp dụng tại gia đình. Tôi có thể gợi ý cho họ về cách giáo dục trẻ tự lập “Anh chị cứ để trẻ tự đi lên cầu thang mỗi khi tới lớp vì mỗi ngày ở trường trẻ phải tự lên xuống cầu thang mấy lần mà, hay các bé tự đi dép được đấy chị ạ, chị cứ để bé tự lấy và tự đi thử xem….”

Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát ý thức của trẻ trong các điều kiện và tình huống hàng ngày như quan sát xem trẻ có biết tự đi rửa tay bằng xà phòng khi thấy tay bẩn chưa, hay sau khi đi vệ sinh đã biết xả nước chưa, sau khi chơi xong có biết tự đi cất đồ chơi gọn gàng hay cần bố mẹ nhắc nhở, giúp đỡ, khi người lớn nhờ trẻ lấy giúp ly nước, bật ti vi, hay tắt quạt thì biểu hiện của trẻ ra sao. Trẻ có thích tự xúc cơm, tự mặc chuẩn bị quần áo khoác, khẩu trang khi đi ra đường hay không….để từ đó có những biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.

Tôi đã tổ chức tuyên truyền đến bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức. Tuyên truyền thông qua góc tuyên truyền của lớp, giờ đón và trả trẻ, thông qua các cuộc họp phụ huynh, qua zalo nhóm lớp…Tôi tuyên truyền đến các bậc phụ huynh về nội dung rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Vì bố mẹ là những người làm gương quan trọng nhất của con cái. Trao đổi phụ huynh ở nhà nên cho trẻ làm những công việc tự phục vụ vừa sức của trẻ. Từ đó trẻ sẽ tự hào về những gì mình làm được. Cho phụ huynh thấy rằng nên cân bằng giữa quá trình nuôi dưỡng và khuyến khích sự độc lập để trẻ khám phá và trải nghiệm giúp trẻ tự tin. 

Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả tốt thì phải biết kết hợp hài hòa các biện pháp trên và không thể thiếu một trong những biện pháp đó.  Bên cạnh đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu thương của cô giáo đối với trẻ.

2.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:

  1. Thuận lợi:

Được sự quan tâm của ban giám hiệu luôn chỉ đạo sát sao với công tác chuyên môn. Luôn tạo điều kiện cho giáo viên được học tập nâng cao chuyên môn, mua sắm cũng như bổ sung cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi để đảm bảo chất lượng trong chăm sóc và giáo dục trẻ.

Giáo viên ở lớp đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, là những giáo viên trẻ, nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Với tình yêu nghề mến trẻ, hăng say trong công việc các cô luôn nghiên cứu tìm tòi phương pháp giáo dục để trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách tốt nhất cho trẻ.

Đa số các con đều ngoan, có nề nếp tốt, khả năng tiếp thu nhanh. Các con rất mạnh dạn tự tin trong hoạt động, tích cực trong mọi hoạt động.

Luôn luôn được sự quan tâm, chia sẻ và ủng hộ của phụ huynh, phụ huynh rất quan tâm đến việc học của các con, nhiệt tình ủng hộ các hoạt động học của nhà trường, lớp.

  1. Khó khăn:

Tuy cùng 1 độ tuổi nhưng khả năng nhận thức của trẻ là không đồng đều. Có một số trẻ còn chưa biết nói, hoặc nói chưa thạo nên sẽ gây khó khăn cho trẻ trong việc thể hiện ý muốn của mình cho cô giáo. Trẻ đa số được bố mẹ nuông chiều, sống trong bao bọc nên có tính ỷ lại, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.

Giáo viên nhận thức được việc phải giáo dục, rèn luyện cho trẻ kỹ năng tự phục vụ song về hình thức để cô mang đến cho trẻ lại đạt kết quả chưa cao. Và không thể không nói tới đó là sự e ngại từ phía phụ huynh, sợ rèn trẻ nhưng phụ huynh lại nghĩ là giáo viên lười biến và bắt trẻ phải làm thây cô.

Nhiều phụ huynh còn trẻ không đầu tư thời gian cho con và chưa nhận thức rõ về việc cần phải giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ từ những năm đầu đời, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ.

2.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại:

Đầu tiên là tạo môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Bên cạnh đó tôi luôn dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động hằng ngày ở lớp.

Luôn động viên khen ngợi việc làm của trẻ kịp thời

Và một việc làm cần thiết để dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đó là tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh cùng gia đình giáo dục cho trẻ kỹ năng tự phục vụ

2.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến:

Sáng kiến này tôi đã áp dụng tại trường MN Đại Minh đạt hiệu quả mà không cần phải tốn bất kỳ chi phí nào. Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp trong trường mầm non trên địa bàn huyện.

2.5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:

2.5.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

Đối với giáo viên:

Nắm được mục đích, hiểu rõ sự cần thiết phải dạy kỹ năng tự phục vụ

Nắm vững phương pháp dạy kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ qua các hoạt động cho trẻ.

Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ

Phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.

Đối với học sinh:

Trẻ tự rửa mặt; rửa tay trước khi ăn, sau khi đi đại tiện; tự đánh răng.

Trẻ tự mặc quần áo, biết gấp cất trải mền, gối.

Biết giúp cô lau bàn ghế, giặt khăn, phơi khăn, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.

Biết dùng tay che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi…

Biết giữ đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ.

Đối với phụ huynh:

Qua sự tiến bộ rõ rệt của trẻ, các bậc phụ huynh cũng tỏ ra đồng cảm, chia sẻ hơn với công việc của cô giáo, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô, với nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống.

Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi vào lớp, tự xúc cơm ăn …..

2.5.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có):

Giáo viên nắm được mục đích, phương pháp dạy kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ qua các hoạt động cho trẻ, hiểu rõ sự cần thiết phải dạy kỹ năng tự phục vụ

Trẻ có thể thực hiện được một số kỹ năng tự phục vụ bản thân: tự rửa mặt; rửa tay trước khi ăn, sau khi đi đại tiện; tự đánh răng. Biết giúp cô lau bàn ghế, giặt khăn, phơi khăn, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.

Qua sự tiến bộ rõ rệt của trẻ, các bậc phụ huynh cũng tỏ ra đồng cảm, chia sẻ hơn với công việc của cô giáo, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô, với nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống.

  1. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có):Không có
  2. 4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

Điều kiện về cơ sở vật chất:

Trường có phòng lớp rộng rãi, thoáng mát, khang trang, trang bị đầy đủ trang thiết bị và đồ dùng dạy học, đủ nhu cầu cho việc dạy và học.

Tổ chức bán trú cho trẻ ở lại cả ngày để nề nếp lớp ổn định.

Điều kiện về con người:

Giáo viên nắm vững phương pháp, có khả năng truyền thụ các kiến thức cho trẻ để trẻ hào hứng tiếp thu khi được học. Về bản thân tôi phải luôn chủ động tìm tòi, học hỏi kinh nhiệm trong việc giáo dục trẻ, nắm được định hướng đổi mới trong phương pháp giảng dạy.

Phụ huynh quan tâm đến con em của mình, phối hợp chặt chẽ với nhà trường và giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.

  1. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc ápdụng sáng kiến lần đầu – nếu có:
Số

TT

Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ
1 Nguyễn Thị Thanh Hằng 03/03/1989 Trường MN Đại Minh Giáo viên Đại học Áp dụng thử SK
2 Nguyễn T Hoàng Phượng 23/10/1988 Trường MN Đại Minh Giáo viên Đại học Áp dụng thử SK
3 Trần Thị Ngọc Lành 02/02/1992 Trường MN Đại Minh Giáo viên Đại học Áp dụng thử SK
4 Ngô Thị Mỹ Duyên 22/05/1992 Trường MN Đại Minh Giáo viên Cao đẳng Áp dụng thử SK

Hồ sơ kèm theo:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cảm nhận của Phụ huynh

Chị Nguyễn Thị Hoài Thu – Phụ huynh bé: Nguyễn Huỳnh Linh Đan – Lớp lớn

Con tôi rất nhút nhát, do công việc bận rộn gia đình cũng không có thời gian để tạo điều kiện cho bé thường xuyên tiếp xúc với môi trường bên ngoài nên bé ngại giao tiếp hơn. Do đó khoảng thời gian đầu cho bé đi học là quãng thời gian khó khăn cho cả bé và gia đình. Tôi đã từng khóc khi thấy bé đứng thút thít do không thuộc những động tác thể dục buổi sáng… Thời gian trôi thật mau, giờ bé đã nên người và tự tin hơn rất nhiều, bé lại có thể phát huy được năng khiếu múa hát. Tất cả là nhờ sự yêu thương, gần gũi của các cô đã làm cho bé tìm được niềm vui khi đến lớp.